Sỏi mật là bệnh rất thường gặp. Tuy nhiên không phải ai cũng hiễu rõ hết được về căn bệnh này. Nhiều bệnh
nhân khi mới bị sỏi thường băn khoan không biết bệnh sỏi mật có di truyền không, có chữa được không? Đặc biệt có rất nhiều trường hợp bệnh nhân bị sỏi mật
là cha mẹ nên rất lo lắng không biết con của mình khi lớn lên có bị mắc sỏi mật
hay không. Để giải đáp cho những thắc mắc đó, chúng ta cùng đi sâu tìm hiểu về
bệnh sỏi mật là gì và bệnh sỏi mật dưới góc độ di truyền qua bài viết sau đây.
Sỏi mật là bệnh gì?
Sỏi mật là một trong những bệnh lý về đường tiêu hóa có tỉ lệ mắc ở người trưởng thành nhiều nhất trên toàn thế giới.
Trong hệ tiêu hóa, dịch mật đóng
mật vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình tiêu hóa thức ăn. Dịch mật là
do gan bài tiết ra và được dự trữ trong túi mật. Khi ta ăn thức ăn, túi mật có
nhiệm vụ co bóp để đẩy dịch mật qua ống mật chủ (đường mật) vào ruột non giúp
tiêu hóa thức ăn. Những lắng đọng bất thường của các thành phần gồm
Cholesterol, Acid mật và Phospholipid trong dịch mật là yếu tố quan trọng thúc
đẩy tạo sỏi. Sỏi mật có thể được hình
thành ở trong túi mật, ống mật chủ, hoặc trong các ống gan (sỏi đường mật trong
gan).
![]() |
Bệnh sỏi mật có di truyền không? |
Sỏi mật làm tắc nghẽn đường lưu thông của mật, khiến lượng mật đưa vào ruột không đủ để tiêu hóa thức ăn, dẫn đến cơ thể bị thiếu hụt dinh dưỡng. Sỏi mật thường gây ra đau bụng, viêm nhiễm và nhiễm trùng túi mật, viêm tụy… Nhiều nghiên cứu về di truyền trong y học hiện đại đã chứng minh rằng sự đột biến gen và tính di truyền đã góp phần lớn vào sự hình thành sỏi mật ở người bệnh và những người trong gia đình của họ.
Sỏi mật có tỉ lệ mắc cao và không
dễ phát hiện. Phạm vi ảnh hưởng của bệnh này thay đổi đáng kể trên toàn thế giới:
tại Hoa Kỳ, có khoảng 10-15% người trưởng thành có sỏi mật; ở các nước Mỹ
Latinh, tỉ lệ mắc bệnh này lên đến 50%, còn ở Bắc Ấn Độ là 6%. Nguy cơ hình
thành sỏi có liên quan chặt chẽ với yếu tố giới tính, độ tuổi, béo phì, dân tộc
và đặc biệt là tiền sử gia đình và sự tương tác của nhiều gen trong cơ thể với
môi trường.
Phần lớn người mắc sỏi mật không
dễ dàng phát hiện được sỏi túi mật trong điều kiện bình thường do ban đầu các
triệu chứng không đáng chú ý. Chỉ có 25% tổng số các trường hợp xuất hiện cơn
đau quặn mật vùng hạ sườn phải, và chỉ định phẫu thuật được ưu tiên để tránh những
biến chứng cấp tính cho người bệnh như viêm tụy cấp, viêm gan, vàng da tắc mật,
vỡ túi mật gây nhiễm trùng ổ bụng và nhiễm trùng máu... Chính vì vậy, giáo sư
Frank Lammert, bác sĩ nội khoa đại học Bonn đã nhận định: "Sỏi mật là một
trong những bệnh lý đường tiêu hóa chiếm chi phí điều trị cao nhất”.
Sỏi mật có di truyền không? Gen nào gây bệnh sỏi mật?
Theo nhận định của Giáo sư Tilman Sauerbruch của bệnh viện đại học Bonn: "Bệnh sỏi mật hình thành do 70-80 % yếu tố môi trường như chế độ ăn uống, lối sống không khoa học gây nên, phần còn lại là do gen quyết định". Do đó, tỉ lệ gia đình có nhiều người cùng mắc bệnh này khá cao. Nghiên cứu trên các cặp song sinh cũng cho thấy yếu tố di truyền làm tăng ngay cơ mắc sỏi túi mật.
Từ những dự đoán bước đầu, nhóm
nghiên cứu Đại học Bonn cùng các đồng nghiệp từ Romania đã tiến hành nghiên cứu
trên 178 phụ nữ và nam giới đều bị sỏi mật trong 84 gia đình. Kết quả cho thấy
có 21,4 % người bệnh mang một biến thể gen đặc biệt làm tăng đáng kể nguy cơ
phát triển bệnh là ABCG8; ở nhóm chứng không mắc bệnh thì chỉ 8,6% có kiểu gen
này. Đột biến này có tỉ lệ di truyền lên tới 10% ở các nước Châu Âu.
ABCG8 là một trong các gen tham
gia vào quá trình vận chuyển năng lượng và chuyển hóa cholesterol ở tế bào gan,
ruột, đại tràng. Đột biến gen kích thích bơm cholesterol hoạt động thường
xuyên, liên tục với tốc độ cao, làm giảm hấp thụ cholesterol ở ruột và tăng vận
chuyển từ gan vào hệ thống đường mật, gây mất cân bằng thành phần dịch mật, tạo
điều kiện cho sự kết tinh cholesterol. Do đó, những người mang gen đột biến
ABCG8 sẽ có nguy cơ mắc sỏi mật cao hơn 2-3 lần và tăng khả năng tái phát sỏi
sau cắt bỏ túi mật.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu của Viện
Khoa học Y tế Ấn Độ cũng chứng minh sự biến đổi cấu trúc gen apolipoprotein A1
và C3 (thành phần protein trong HDL) cũng gây rối loạn chuyển hóa lipid và tăng
nguy cơ sỏi mật.
Dựa trên những kết quả nghiên
cứu, giáo sư Lammert tin tưởng rằng trong tương lai sẽ có thuốc tác động lên
gen ABCG8 để giảm hoạt động quá mức của bơm cholesterol, nhưng cần thiết phải
có các nghiên cứu sâu hơn, vì không chỉ có một gen đột biến tham gia vào cơ chế
tạo sỏi mật. Đồng thời, những phát hiện này cũng giúp ích cho quá trình phòng
ngừa và điều trị sỏi túi mật bằng cách xét nghiệm sàng lọc kiểu gen đột biến.
Nhưng trước mắt, người bệnh nên có lối sống lành mạnh, luyện tập thường xuyên,
chế độ ăn uống khoa học và giải pháp từ thiên nhiên để tránh xa vấn đề bệnh
tật, trong đó có bệnh lý đường mật.
Bệnh sỏi mật có chữa được không?
Bệnh sỏi mật có thể được chữa khỏi nếu như được điều trị kịp thời kết hợp với chế độ ăn uống khoa học để hạn chế các nguy cơ gây bệnh và phòng ngừa sỏi tái phát sau điều trị. Ở nước ta, hiện nay có hai phương pháp điều trị sỏi mật phổ biến là điều trị bằng Tây y và Đông y.
Điều trị sỏi mật bằng Tây y có những phương pháp nào?
- Thuốc làm tan sỏi: hầu hết không
có tác dụng với sỏi gan (sỏi sắc tố, thành phần chính bilirubin), bởi vì thuốc
chỉ có tác dụng với sỏi cholesterol. Các thuốc tán sỏi mà bạn có thể tham khảo
đó là thuốc giảm đau, thuốc hướng cơ, thuốc làm tan sỏi Acid ursodesoxycholic….
Những loại thuốc này được chỉ định dùng khi sỏi còn nhỏ và chưa gây ra biến chứng
gì. Với những viên sỏi to, nằm rải rác hoặc đã xuất hiện biến chứng thì phẫu
thuật là giải pháp cuối cùng.
- Tán sỏi quá da: Tán sỏi bằng
sóng, làm tan sỏi trực tiếp bằng hóa chất.
dùng với sỏi to, gây đau nhiều hoặc
gây viêm túi mật, đây là phương pháp hiện
nay thường dùng phổ biến, rút ngắn thời gian nằm viện và hồi phục sức khỏe nhanh
- Nội soi mật tụy ngược dòng:
phương pháp này chỉ thích hợp cho người bệnh chưa bị chít hẹp đường mật. Ưu điểm
là tiến hành nhanh, ít xâm lấn, giải quyết kịp thời tình trạng ứ trệ dịch mật.
- Phẫu thuật mở hở lấy sỏi: được
áp dụng nhiều hơn cả do phối hợp được các kỹ thuật hiện đại như lấy sỏi bằng rọ,
tán sỏi nội soi qua ống mềm, nong và đặt stent đoạn đường mật bị tắc hẹp. Nhưng
phương pháp này khó khăn ở chỗ là không thực hiện được cho người bệnh có bệnh
lý về tim mạch hoặc rối loạn đông máu.
- Cắt bỏ túi mật: Cắt túi mật có
thể là cần thiết nếu bị đau từ sỏi ngăn chặn dòng chảy của mật, hoặc những trường
hợp sỏi đã quá lớn, gây đau nhiều hoặc gây viêm túi mật. Cắt túi mật thường được
thực hiện bằng cách chèn một máy quay phim nhỏ và các công cụ phẫu thuật đặc biệt
thông qua bốn vết rạch nhỏ để xem bên trong bụng và loại bỏ túi mật. Các bác sĩ
gọi đây là cắt bỏ túi mật nội soi. Trong một số trường hợp, một vết rạch lớn có
thể được sử dụng để cắt bỏ túi mật. Điều này được gọi là cắt bỏ túi mật mở.
- Phẫu thuật cắt một phần gan (đối
với bệnh sỏi gan – sỏi đường mật trong gan): là giải pháp cuối cùng, khi mà tất
cả các phương pháp trên không thể tiến hành hoặc sỏi nằm quá sâu trong nhu mô
gan. Một phần của lá gan bị cắt có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sản xuất dịch
mật, đào thải độc tố, chuyển hóa glucose… vì vậy, chỉ những trường hợp nặng bệnh
nhân mới được điều trị bằng giải pháp này.
Điều trị sỏi bằng Tây Y luôn là
phương pháp điều trị bằng y học hiện đại. Tuy nhiên, các phương pháp điều trị
nêu trên chỉ là chữa “phần ngọn”, không giải quyết được tận gốc của căn bệnh
nên tỉ lệ sỏi tái phát rất cao và chi phí cho điều trị khá tốn kém, nhất là đối
với những bệnh nhân nghèo.
Điều trị sỏi đường mật trong gan bằng các thảo dược quý Đông y
Theo đông y, sự hình thành sỏi
nguyên nhân không chỉ là sự ứ trệ tại hệ thống đường mật mà còn liên quan mật
thiết tới sự mất cân bằng chuyển hóa tại can (gan), sự hoạt động kém hiệu quả của
tỳ vị (hệ tiêu hóa). Tương ứng với nguyên nhân hình thành sỏi thì đông y có các
phép trị bệnh như: “sơ can”– tăng cường chức năng gan, “lợi đởm” – lợi mật,
“hành khí chỉ thống” – giảm ứ trệ, giảm đau, “thanh nhiệt lợi thấp” – kháng khuẩn
kháng viêm và “bài thạch” – làm nhỏ sỏi. Điều trị bệnh sỏi mật bằng phương pháp
Đông y sẽ cho kết quả tốt nhất vì vừa không phải phẫu thuật, thuốc đơn giản, vừa
có hiệu quả cao, đặc biệt chữa được tận gốc nên không sợ bị tái phát.
50% người bệnh sau khi tiến hành
các biện pháp can thiệp lấy sỏi, sau 3 – 10 năm phải nhập viện do sỏi tái phát.
Có những trường hợp phải tiến hành phẫu thuật 2 – 3 lần, nên làm gia tăng nguy
cơ xuất hiện biến chứng do đường mật trong gan đã bị tổn thương. Thế nhưng,
đông y lại có thể khắc phục được các nhược điểm này.